Văn 11 - Bài tham khảo phân tích Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu(sưu tầm)



 
Trang ChínhShopGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

Share
 

 Văn 11 - Bài tham khảo phân tích Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu(sưu tầm)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
halovn113
halovn113
Tước hiệuModerators

Moderators


Thông TinPosts : 38
Rep : 2002

Tài Sản của halovn113

Pet:
TomoyoLucia

List Nhạc:

Văn 11 - Bài tham khảo phân tích Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu(sưu tầm) Empty
Bài gửiTiêu đề: Văn 11 - Bài tham khảo phân tích Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu(sưu tầm)   Văn 11 - Bài tham khảo phân tích Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu(sưu tầm) I_icon_minitimeMon Jan 21, 2013 9:20 pm

Chúc các thành viên trong diễn đàn 11B1 của chúng ta có một ngày thật tốt lành nhé
Bài "gợi ý" :
Hoàn cảnh ra đời của bài thơ này là những năm đầu thế kỷ XX, đất nước ta đã mất chủ quyền, hoàn toàn lọt vào tay thực dân Pháp. Tiếng trống, tiếng mõ Cần Vương đã tắt, báo hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo. Phan Bội Châu lúc này mới ba mươi tám tuổi, là hình ảnh tiêu biểu của một thế hệ cách mạng mới, quyết tâm vượt mình, bỏ qua mớ giáo lý đã quá lỗi thời của đạo Khổng để đón nhận tư tưởng tiên phong trong giai đoạn, mong tìm ra bước đi mới cho dân tộc, nhằm tự giải phóng mình. Phong trào Đông du được nhóm lên cùng với bao nhiêu hy vọng...

Bài thơ đã thể hiện rất sinh động tư thế, ý nghĩ của Phan Bội Châu trong buổi xuất dương tìm đường cứu nước. Hai câu đề nói rõ nhận thức của nhà thơ về chí làm trai - một nhận thức làm cơ sở cho mọi hành động:

Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời.

Thực ra chí làm trai chẳng phải đến bây giờ mới được Phan Bội Châu khẳng định. Trước đó, trong thơ trung đại, ta vẫn thấy Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Công Trứ nhắc đến (ở các bài Thuật hoài, Chí nam nhi). Nhưng điều đó không có nghĩa là ở bài thơ của Phan Bội Châu, lý tưởng nhân sinh kia đã mất đi sự mới lạ, thôi thúc. Nó chính là điều nung nấu bao năm của tác giả bây giờ được nói ra, trước hết như lời tự vấn, tự nhủ, tự mình nâng cao tinh thần mình: đã làm trai là phải làm nên chuyện lạ, đó là trời đất không để "tự chuyển dời". Đây là một tư tưởng táo bạo, cách mạng đối với người xuất thân từ cửa Khổng sân Trình trong thời điểm ấy. Với hai câu thực, nhà thơ tiếp tục khẳng định tư thế của kẻ làm trai giữa vũ trụ và trong cuộc đời:

Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai ?

Ý thức về cái "tôi" đã hiện lên rõ ràng, không rụt rè, dè dặt. Đó là nhân vật trữ tình đang tự đứng giữa cuộc đời một cách can đảm, do ý thức được sứ mệnh của mình trong lịch sử và cũng do sự thôi thúc của khát vọng lập công danh. Hai câu luận nói về sự thực nhức nhối:

Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.

Đến hai câu này, ta cũng thấy nổi lên ý chí làm trai với khát vọng lưu danh theo một nội dung mới, đó là ý thức về non sông đã mất chủ quyền, "hiền thánh" thần tượng một thuở giờ còn đâu nữa. Hai câu thơ nhận định thực trạng lịch sử bằng một cái nhìn dứt khoát. "Hiền thánh còn đâu học cũng hoài" - đây quả là một câu thơ thể hiện khí thế sục sôi của Phan Bội Châu, cho thấy cái nhìn tỉnh táo của ông về thời cuộc.

Hai câu kết của bài thơ có cái khí thế gân guốc và ý thức được sự ra đi một cách sôi trào, đầy dũng khí:

Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

"Vượt biển Đông" là cách nói có vẻ khoa trương nhưng đó là hành động sắp diễn ra. Người ra đi trong niềm hứng khởi vô biên "muôn trùng sóng bạc" tiễn chân như một yếu tố kích thích. Đó chính là bạn đồng hành trong cuộc ra đi hùng tráng này.

Xuất dương lưu biệt là một khúc hát lên đường. Đề tài có tính chất truyền thống, nhưng tư tưởng lại rất mới mẻ. Bài thơ mang âm hưởng lạc quan nên đã khiến cho cảm xúc thể hiện trong bài thơ có chiều sâu, có sức gợi cảm mạnh mẽ. Đây là tráng ca của một vị anh hùng mà suốt đời không hề biết mệt mỏi trong hành động cứu nước thương dân.

Bài I
Phan Bội Châu (1867-1940) là một nhà yêu nước và cách mạng lớn của dân tộc ,trong ông luôn sục sôi ý chí tìm ra con đường cứu nước mới cho dân tộc .Tuy văn tài lỗi lạc nhưng ông không xem văn chương là con đường sự nghiệp của mình ,ông chỉ muốn dùng nó để lên tiếng cho cách mạng ,cho dân tộc đang sống trong đói khổ lầm than ,để những người thanh niên yêu nước đứng dậy làm cách mạng cứu nước ,cứu dân. Tinh thần yêu nước ấy được thể hiện rõ trong tác phẩm “Lưu biệt khi xuất dương” (1905)được ông sáng tác trước lúc lên đường sang Nhật . Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mang hình thức cổ điển , khí thơ và cảm hứng lại rất hiện đại, đó là sản phẩm tinh thần của một nhà nho tiến bộ. Bài thơ thể hiện một lí tưởng sống cao đẹp, đồng thời là một bài học về đạo làm người ,một bài ca hùng tráng về chí nam nhi của nhân vật trữ tình mang vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng .

Thật xứng đáng với vẻ đẹp ấy ,Phan Bội Châu mở đầu bài thơ không phải là những lời chia tay ,nhớ thương bịn rịn của người đi kẻ ở lại ,mà đó là những câu thơ mang lí tưởng hoài bão của con người đang sục sôi ý chí muốn làm chủ vũ trụ ,muốn xoay chuyển càn khôn đất trời :

“Làm trai phải lạ ở trên đời

Há để càn khôn tự chuyển dời”

(Sinh vi Nam tử yếu hi kì

Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi )

Hai câu thơ là một lí tưởng đẹp của con người. Con người phải làm chủ bước đi của lịch sử, phải chủ động trước hoàn cảnh. "Làm trai" là khẳng định chí khí của thanh niên ,sống là phải “lạ” ,làm nên sự nghiệp lớn để lại tiếng thơm muôn đời ,đem lại cho đất nước cuộc sống ấm no ,không thể sống tầm thường ích kỉ ,chỉ cảm thụ cuộc sống riêng mình.trước Phan Bội Châu đã có bao nhiêu con người ưu tú nói về chí làm trai với lòng nhiệt thành cháy bỏng - “Nam nhi vị liễu công danh trái / Tu thỉnh nhân gian thuyết Vũ hầu”(Phạm ngũ lão ) .Song,hai câu thơ của cụ Phan vừa như một câu hỏi tu từ khẳng định chí làm trai giữa trời đất vừa là lời đối thoại rằng không lẽ đấng nam nhi lại để mạc cho trời đất tự chuyển dời ,tới đâu thì tới ,còn “chúng ta” là kẻ đứng ngoài không phận sự hay sao ? Chỉ hai câu đề ta cũng thấy được một lối sống cao đẹp tiến bộ đầy bãn lĩnh ,sẵn sàng thách thức càn khôn vũ trụ mang vẻ đẹp của khí phách hào hùng người chí sĩ Phan Bội Châu . Khí phách ấy lại vang lên mạnh mẽ hơn trong hai câu thơ tiếp theo :

“Trong khoảng trăm năm cần có tớ

Sau này muôn thuở há không ai ?”

Nhân vật trữ tình ý thức dược trách nhiệm của mình trước đồng loại,trước đất trời bao la . “Trong khoảng trăm năm” này cần có một người sẵn lòng phục vụ cách mạng ,phục vụ những lí tưởng cao đẹp mang lại yên bình cho đồng loại . “Trăm năm” ẩn dụ cho một đời người ,một cuộc sống mà “tớ” có trách nhiệm gánh vác .Cái tôi của tác giả mang đầy trách nhiệm ,”tớ” đang hiện diện hôm nay phải làm được một điều j đó có ý nghĩa cho đời , “tớ” thấy việc không thể không làm ,không thể ỷ lại cho ai .Cái tôi về trách nhiệm ấy lại cho ta thấy được lịch sử là một dòng chảy liên tục ,có sự chung tay góp sức của nhiều thế hệ .”Sau này muôn thuở há không ai?” -câu thơ vừa đặt ra cho ông cũng như cho những người thanh niên yêu nước của dân tộc trước cảnh nước nhà .Song ,ông cũng đặt một niềm tin về thế hệ mai sau của dân tộc sẽ làm nên chuyện lạ ,sẽ làm nên non sông này ngàn đời tươi đẹp .Giọng thơ đĩnh đạc hào hùng mang niềm tin của nhân vật trữ tình ,đồng thời khẳng địnhvai trò của cá nhân ông ,thúc giục những chí sĩ yêu nước lên đường .

Cái chết vinh quang hay cuộc sống tủi nhục lại được nhân vật trữ tình thể hiện trong hai câu tiếp theo :

Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.



Câu thơ mang nỗi đau đớn ,xót xa của tác giả . Lúc này, khi dân tộc đã mất tự do, chủ quyền đất nước bị xâm hại, thì việc đầu tiên, cần thiết nhất không phải học văn chương cử tử nữa. Câu thơ không có ý chê bai hay bài xích chuyện học đạo thánh hiền mà chỉ có ý khuyên con người ta phải sống với thời cuộc. Nước mất thì nhà tan, dân chúng lầm than, đói khổ, đạo đức xã hội suy đồi khiến những con người có trách nhiệm với dân tộc phải suy nghĩ mà đau lòng .Với nghệ thuật đối lập được ông sử dụng một cách tài tình -gắn sự sống chết công danh của bản thân với sự mất còn vinh nhục của đất nước .Hình ảnh này vừa mang vẻ đẹp lãng mạn - sự nhận thức sâu sắc về thời cuộc -lại mang khí phách hào hùng của đấng nam nhi khi lòng nhiệt huyết đưa dân tộc ra khổi kiếp sống lầm than đang len lỏi khắp da thịt ông .

“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.”

Việc “lạ” của nhân vật trữ tình đang nung nấu sắp khởi hành .Tư thế hăm hở ,mang long quyết tâm về cuộc xuất dương cứu nước ,nhà thơ thoát ra khỏi tủi thẹn ,day dứt của hai câu thơ trước để sang hai câu thở cuối ,rồi lên chiếc thuyền sắp ra khơi .Những “cánh gió” “sóng bạc”mang vẻ đẹp lãng mạn về những sóng gió ,thăng trâm phía trước .Nhưng những hình ảnh này lại được ông khắc họa bằng giọng thơ hào hùng ,bay bỗng .Tâm thế của nhân vật trữ tình lúc này là muốn lao ngay vào một con đường hoạt động mới ,;bay lên quẫy sóng đại dương ,bay lên cùng những đợt sóng trào sôi thoáng hiện trong tâm trí ông .ông không xem đó là những cách trở ,những vật cản trên con đường sự nghiệp cách mạng của mình ,mà trái lại ông xem chúng như bạn đường ,là đối tượng để mình đua sức đua tài .Nhiệt huyết cứu nước cứu đồng loại đã lấn át nỗi lo âu trong ông .Khí thế ra đi thật hùng dũng và đầy quyết tâm, tràn trề sức mạnh.Hình ảnh kết thúc bài thơ hào hùng, lãng mạn, thể hiện được tư thế ra đi đầy khí phách của con người trong thời đại mới. Người ra đi đã gửi gắm bao nhiêu hi vọng vào con đường mình đã chọn.Bài thơ là cuộc chia tay từ biệt nhưng cũng là tiếng hô gọi ,là bàn tay vẫy gọi những lý tưởng cách mạng mới những con người yêu nước của thế hệ thanh niên tràn đây nhựa sống và phía xa xa kia là cánh cửa cuộc sống ấm no hạnh phúc của muôn dân .

Nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình tượng đẹp về một nhà nho tiến bộ đầu thế kỉ XX với lí tưởng cứu nước, khát vọng sống, chiến đấu vì dân tộc, lòng tin và ước mơ về một tương lai tươi sáng.Những hình ảnh kì vĩ về vũ trụ bao la càng làm rõ vẻ đẹp lãng mạn hào hùng của người lên đường - chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu .

Bài II:
Tên tuổi ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục hội…Tên tuổi Phan Bội Châu còn gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tinh thần yêu nước. Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng (Tố Hữu).


Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương Trường Nghệ. Năm 1904, ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905, ông dấy lên phong trào Đông Du. Trước lúc lên đường Đông Du, qua Trung Hoa, Nhật Bản để cầu ngoại viện với bao hoài bão tung hoành, ông đã để lại cho các đồng chí bài thơ Xuất dương lưu biệt. Có thể nói, bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ văn Phan Bội Châu.

Xuất dương lưu biệt được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc tráng ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.

Hai câu đề tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:

Sinh nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi.

Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên điều lạ (tử yếu hi kì). Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường, không thể sống một cách thụ động để cho trời đất (càn khôn) tự chuyển dời một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ, tài năng của mình, muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyển đất trời, như ông đã nói trong một bài thơ khác:

Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới cảm nhận được cái khẩu khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muồn làm nên điều lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm như trong một vần thơ cổ:

Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương.
(Tùy biên thi thoại – Viên Mai)

(Bữa bữa những mong ghi sử sách,
Lập thân xoáng nhất ấy văn chương)

Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sôi sục: Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đến những chỗ nói người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt dầm đìa rỏ xuống ướt đẫm cả giấy…(Ngục trung thư)

Phần thực ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử:

Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.

Ngã là ta; tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ khẳng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ yêu nước trong cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu là nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định. Đó là ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử:

-…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội có, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng (Trần Quốc Tuấn).

- Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh (Văn Thiên Tường)

Lấy cái hữu hạn bách niên của một đời người đối với cái vô hạn thiên tải của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng biểu lộ quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và nguy hiểm, ông vẫn bất khuất, lạc quan:

Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!
(Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông)


Phần luận, tác giả nói về sự sống và cái chết, nói về đường công danh. Đây là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm dài đen tối dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xéo thì thân phận dân ta chỉ là kiếp trâu ngựa, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử sôi kinh, có chúi đầu vào còn đường kinh sử cũng vô nghĩa. Sách vở của Thánh hiền liệu có ích gì trong sự nghiệp cứu nước cứu nhà:



Non sông đã chết sống thêm nhục,
Thánh hiền còn đâu học cũng hoài

Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết. Ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành. Ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927, cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:

Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, đừng ham ăn
Dụng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ…

Sống như thế nào là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới tự khẳng định được: Trong khoảng trăm năm cần có tớ.


Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm sắc màu lãng mạn:



Nguyên trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi

Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, kêu gọi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bài ca ái quốc vì thấm đượm cảm xúc, sục sôi nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết này là một ví dụ: Trường phong – ngọn gió dài, Thiêu trùng bạch lãng – ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sỹ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ: Nguyện trục (mong theo đuổi) và nhất tề phi (cùng bay lên). Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông hải. Nếu hai thanh trắc cuối câu 7 (Đông Hải khứ) làm cho âm điệu thắt lại, nén lại thì hai thanh bằng cuối câu 8 (nhất tề phi) lại làm cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng trầm bổng ấy cũng góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước cùa Phan Bội Châu. Ở đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí cùa người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều tiên sinh đã nói ở hai câu kết.

Xuất dương lưu biệt là bai thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng, tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu.

Bài III:
Phan Bội Châu (1867 – 1940) là cái tên đẹp một thời. Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỷ XX. Tên tuổi ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục hội…Tên tuổi Phan Bội Châu còn gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tinh thần yêu nước. Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng (Tố Hữu).

Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương Trường Nghệ. Năm 1904, ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905, ông dấy lên phong trào Đông Du. Trước lúc lên đường Đông Du, qua Trung Hoa, Nhật Bản để cầu ngoại viện với bao hoài bão tung hoành, ông đã để lại cho các đồng chí bài thơ Xuất dương lưu biệt. Có thể nói, bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ văn Phan Bội Châu.

Xuất dương lưu biệt được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc tráng ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.


Hai câu đề tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:



Sinh nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi.

Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên điều lạ (tử yếu hi kì). Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường, không thể sống một cách thụ động để cho trời đất (càn khôn) tự chuyển dời một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ, tài năng của mình, muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyển đất trời, như ông đã nói trong một bài thơ khác:

Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới cảm nhận được cái khẩu khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muồn làm nên điều lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm như trong một vần thơ cổ:

Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương.
(Tùy biên thi thoại – Viên Mai)

(Bữa bữa những mong ghi sử sách,
Lập thân xoáng nhất ấy văn chương)

Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sôi sục: Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đến những chỗ nói người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt dầm đìa rỏ xuống ướt đẫm cả giấy…(Ngục trung thư)


Phần thực ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử:



Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.

Ngã là ta; tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ khẳng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ yêu nước trong cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu là nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định. Đó là ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử:

-…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội có, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng (Trần Quốc Tuấn).

- Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh (Văn Thiên Tường)

Lấy cái hữu hạn bách niên của một đời người đối với cái vô hạn thiên tải của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng biểu lộ quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và nguy hiểm, ông vẫn bất khuất, lạc quan:

Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!
(Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông)


Phần luận, tác giả nói về sự sống và cái chết, nói về đường công danh. Đây là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm dài đen tối dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xéo thì thân phận dân ta chỉ là kiếp trâu ngựa, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử sôi kinh, có chúi đầu vào còn đường kinh sử cũng vô nghĩa. Sách vở của Thánh hiền liệu có ích gì trong sự nghiệp cứu nước cứu nhà:



Non sông đã chết sống thêm nhục,
Thánh hiền còn đâu học cũng hoài

Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết. Ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành. Ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927, cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:

Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, đừng ham ăn
Dụng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ…

Sống như thế nào là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới tự khẳng định được: Trong khoảng trăm năm cần có tớ.


Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm sắc màu lãng mạn:



Nguyên trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi

Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, kêu gọi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bài ca ái quốc vì thấm đượm cảm xúc, sục sôi nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết này là một ví dụ: Trường phong – ngọn gió dài, Thiêu trùng bạch lãng – ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sỹ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ: Nguyện trục (mong theo đuổi) và nhất tề phi (cùng bay lên). Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông hải. Nếu hai thanh trắc cuối câu 7 (Đông Hải khứ) làm cho âm điệu thắt lại, nén lại thì hai thanh bằng cuối câu 8 (nhất tề phi) lại làm cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng trầm bổng ấy cũng góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước cùa Phan Bội Châu. Ở đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí cùa người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều tiên sinh đã nói ở hai câu kết.

Xuất dương lưu biệt là bai thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng, tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu.

Theo Ths. Phạm Ngọc Thắm* .

Bài làm 2

Bài thơ Xuất dương lưu biệt đúng là bài thơ để nói cái chí của mình (thi dĩ ngôn chí) một khúc tráng ca thể hiện rất rõ trong tư thế, trong suy nghĩ cao cả, mới mẻ và sự quyết tâm hăm hở ra đi tìm đường cứu nước của nhà thơ, nhà cách mạng lớn Phan Bội Châu.

Ngay ở đầu bài thơ, hai câu đề có giá trị như là tuyên ngôn về chí làm trai:

Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hữu càn khôn tự chuyển di
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời)

Chí làm trai là một lí tưởng nhân sinh thời phong kiến. Cái phần tích cực, cái tráng khí hùng tâm của chí làm trai đã từng làm cho không ít người đã lập nên công tích ở đời. Thời trước, chí làm trai không mấy khi tách khỏi kỳ vọng công danh. Nếu Phạm Ngũ Lão nghĩ suy Công danh vương tử còn vương nợ (Thuật hoài) thì Nguyễn Công Trứ cũng trăn trở Không công danh thà nát với cỏ cây (Chí làm trai). Nhà thơ họ Nguyễn còn gắn chí làm trai với nợ tang bồng: Chí làm trai nam bắc đông tây. Cho Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể (Chí làm trai)…

Ở đây, Phan Bội Châu cũng nghĩ tới chí làm trai. Theo nhà thơ, đã làm trai thì phải làm nên chuyện lạ ở đời:

Làm trai phải lạ ở trên đời

Chuyện lạ ấy nhấtđịnh không phải là công danh cũng không phải là nợ tang bồng. Chuyện lạ ở bài thơ này chính là xoay chuyển trời đất, lấp biển dời non.

Há để càn khôn tự chuyển dời

Không thể sống thụ động, câu thơ là một câu hỏi tu từ, khẳng định một tư thế, một tâm thế tuyệt đẹp của nhà cách mạng trong buổi lên đường tự tin vào tài năng của mình muốn làm nên một sự nghiệp to lớn giữa lúc non sông đắm chìm trong cảnh nô lệ lầm than.

Hai câu thực tiếp đó là ý thức tự khẳng định mình, cái tôi trách nhiệm trước thời đại mình đang sống:

Vi bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?)

Hai câu thơ, câu đầu nói giọng khẳng định. Câu sau nghi vấn, nhưng thực chất cũng là khẳng định. Chí làm trai ở đây gắn liền với nhận thức về sự hiện hữu của cái tôi, cái tôi trách nhiệm và ý muốn sống hữu ích, muôn lưu danh với hậu thế. Theo Nguyễn Đình Chú: “Giữa cuộc sống tối tăm của đất nước lúc đó, có được một ý thức về cái tôi như thế, quả là cứng cỏi, là đẹp vô cùng cũng như có được một ý thức lưu danh thiên cổ bằng sự cứu nước quả là cần thiết, là cao cả vô cùng.|

Rất đỗi tự hào về trách nhiệm, vai trò của mình trong cuộc đời, “trong khoảng trăm năm”, và hơn thế nữa, trong “sau này muôn thuở”, nhà thơ nêu câu hỏi: “Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy?”. Chửng lẽ ngàn năm sau lại không có ai để lại tên tuổi mình ư? Thoạt nghe là tự hỏi mình, nhưng thực ra cũng là hỏi tất mọi người. Không chỉ hỏi thôi đâu mà chính là giục giã mọi người hành động.

Hai câu tiếp theo là quan niệm của nhà thơ về lẽ sống trong hoàn cảnh đất nước lầm than, nô lệ:

Giang sơn sử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liên nhiên tụng diệc si
(Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài).

Trong hai câu thơ này, nhà thơ đề cập một cách thống thiết, đầy xúc động về thực tại đau thương của đất nước ta, nhân dân ta đang bị bọn thực dân Pháp thống trị. Cách nói này nửa khẳng định dứt khoát vừa chứa đựng nỗi căm tức khôn nguôi của một con người, một tấm lòng sục sôi, nóng bỏng không cam chịu cúi đầu trước cái nhục mất nước. Đối với nhà thơ lúc này, mọi sách vở giáo dục đều là vô ích:

Hiền thánh còn đâu học cũng hoài

Giọng điệu trang nghiêm, câu thơ ngắn ngọn với ý tưởng sâu sắc táo bạo.

Hai câu kết khép lại bài thơ là một tư thế hăm hở hào hùng, kì vĩ của người ra đi:

Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi

Nghĩa là:

Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muốn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

Mượn hình ảnh thơ những ngọn gió dài (trường phong) và ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên vừa thơ mộng vừa hùng tráng, đầy hào khí, Phan Bội Châu đã thể hiện cái hùng tâm tráng khí của mình và đặc biệt là sự khao khát ra đi đến cháy bỏng của tâm hồn nhà thơ.

Người đọc tưởng như nhà thơ đang “cưỡi gió, đạp sóng” hay đang hóa chim bằng vút cánh qua “sóng gió biển khơi” giữa “cao rộng đất trời”…bay lên cùng muôn trùng sóng bạc với chân trời mới, tới thắng lợi.

Xuất dương lưu biệt, bài thơ chỉ 56 từ mà thể hiện một chí khí lớn lao, kì vĩ. Nhà thơ không can tâm làm nô lệ mà nhất quyết ra đi tìm con đường cứu nước. Giọng thơ đầy cảm xúc, sôi sục, tuôn trào, mãi mãi là lời kêu gọi mọi người hãy hành động, hãy cống hiến hết mình vì nhân dân, vì đất nước.

Nguồn Bài: [You must be registered and logged in to see this link.]
Về Đầu Trang Go down
Takahashi Naoki
Takahashi Naoki
Tước hiệuAdmin

Admin


Thông TinPosts : 34
Rep : 2010

Tài Sản của Takahashi Naoki

Pet:
KudoBotan

List Nhạc:


Văn 11 - Bài tham khảo phân tích Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu(sưu tầm) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Văn 11 - Bài tham khảo phân tích Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu(sưu tầm)   Văn 11 - Bài tham khảo phân tích Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu(sưu tầm) I_icon_minitimeTue Jan 22, 2013 10:37 pm

Chúc các thành viên trong diễn đàn 11B1 của chúng ta có một ngày thật tốt lành nhé
Hay ^^
Về Đầu Trang Go down
https://vn-galaxy.forumvi.com
 

Văn 11 - Bài tham khảo phân tích Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu(sưu tầm)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 Similar topics

-
» Văn 11 - Bài tham khảo phân tích Từ ấy của Tố Hữu (sưu tầm)
» Văn 11 - Bài tham khảo phân tích Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử (sưu tầm)
» Văn 11 - Bài tham khảo phân tích Chiều Tối của Hồ Chí Minh(sưu tầm)
» Văn 11 - Bài tham khảo phân tích Tràng Giang của Huy Cận (sưu tầm)
» Văn 11 - Bài tham khảo phân tích Vội vàng của Xuân Diệu (sưu tầm)
Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
 :: Box Học Tập :: Môn Xã Hội-